Quân sinh ta vị sinh, ta sinh quân dĩ lão

Câu này trích từ 《 Đồng quan diêu từ khí đề thi 》 《 铜官窑瓷器题诗 》từ thời Đường, không rõ tác giả

10dfa9ec8a1363274091f1cc928fa0ec09fac7d4

Thơ này do lò gốm sứ Đồng Quan thời Đường đề thơ, tác giả có thể là Đào Công Chính hoặc ca dao phổ biến lúc đó. Năm 1974-1978, khai quật di chỉ lò Đồng Quan ở Hồ Nam Trường Sa, trông thấy câu thơ được ghi lại trong quyển hạ 《 Toàn Đường thi bổ biên 》 《 全唐诗补编 》của Trần Thượng Quân, quyển năm mươi sáu của 《 Toàn Đường thi tục thập 》 《 全唐诗续拾 》, thơ ngũ ngôn của người vô danh, trang thứ 1642, nhà in Trung Hoa, bản in tháng 10 năm 1992.

a7295e45gw1f39vwsumsij20xc0m810u

Toàn bộ thơ

夜夜挂长钩, 朝朝望楚楼. 可怜孤月夜, 沧照客心愁.

圣水出温泉, 新阳万里传. 常居安乐国, 多报未来缘.

日日思前路, 朝朝别主人. 行行山水上, 处处鸟啼新.

只愁啼鸟别, 恨送古人多. 去后看明月, 风光处处过.

一别行万里, 来时未有期. 月中三十日, 无夜不相思.

千里人归去, 心画 【 疑为尽字 】 一杯中. 莫虑前途远, 开坑 【 疑为帆字 】 逐便风.

小水通大河, 山深鸟宿多. 主人看客好, 曲路亦相过.

道别即须分, 何劳说苦辛. 牵牛石上过, 不见有蹄痕.

一月三场战, 曾无赏罚为. 将军马上坐, 将士雪中眠.

自入新丰市, 唯闻旧酒香. 抱琴酤一醉, 尽日卧弯汤.

我有方寸心, 无人堪共说. 遣风吹却云, 言向天边月.

男儿大丈夫, 何用本乡居. 明月家家有, 黄金何处无.

客人莫直入, 直入主人嗔. 扣门三五下, 自有出来人.

君生我未生, 我生君已老. 君恨我生迟, 我恨君生早.

天地平如水, 王道自然开. 家中无学子, 官从何处来.

龙门多贵客, 出户是贤宾. 今日归家去, 将与贵人看.

天吞日月明 (上夭下明), 五月已三龙. 言身一寸谢, 千里重会撞.

上有东流水, 下有好山林. 主人居此宅, 可以斗量金.

买人心惆怅, 卖人心不安. 题诗安瓶上, 将与卖人看.

自从君别后, 常守旧时心. 洛阳来路远, 还用几黄金.

念念催年促, 由如少水如. 劝诸行过众, 修学香无馀.

Dạ dạ quải trường câu, triêu triêu vọng sở lâu. Khả liên cô nguyệt dạ, thương chiếu khách tâm sầu.

Thánh thủy xuất ôn tuyền, tân dương vạn lý truyện. Thường cư an nhạc quốc, đa báo vị lai duyên.

Nhật nhật tư tiền lộ, triêu triêu biệt chủ nhân. Hành hành sơn thủy thượng, xử xử điểu đề tân.

Chích sầu đề điểu biệt, hận tống cổ nhân đa. Khứ hậu khán minh nguyệt, phong quang xử xử quá.

Nhất biệt hành vạn lý, lai thì vị hữu kỳ. Nguyệt trung tam thập nhật, vô dạ bất tương tư.

Thiên lý nhân quy khứ, tâm họa 【 Nghi vi tẫn tự 】 nhất bôi trung. Mạc lự tiền đồ viễn, khai khanh 【 Nghi vi phàm tự 】 trục tiện phong.

Tiểu thủy thông đại hà, sơn thâm điểu túc đa. Chủ nhân khán khách hảo, khúc lộ diệc tương quá.

Đạo biệt tức tu phân, hà lao thuyết khổ tân. Khiên ngưu thạch thượng quá, bất kiến hữu đề ngân.

Nhất nguyệt tam tràng chiến, tằng vô thưởng phạt vi. Tương quân mã thượng tọa, tương sĩ tuyết trung miên.
*Ghi chú: Từ 眠 miên không hợp vần, nghi ngờ có sai lầm. Có bản sửa chữa thành từ 归 quy, còn khó xác định.

Tự nhập tân phong thị, duy văn cựu tửu hương. Bão cầm cô nhất túy, tẫn nhật ngọa loan thang.

Ngã hữu phương thốn tâm, vô nhân kham cộng thuyết. Khiển phong xuy khước vân, ngôn hướng thiên biên nguyệt.

Nam nhi đại trượng phu, hà dụng bản hương cư. Minh nguyệt gia gia hữu, hoàng kim hà xử vô.

Khách nhân mạc trực nhập, trực nhập chủ nhân sân. Khấu môn tam ngũ hạ, tự hữu xuất lai nhân.

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão. Quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo.

Thiên địa bình như thủy, vương đạo tự nhiên khai. Gia trung vô học tử, quan tòng hà xử lai.

Long môn đa quý khách, xuất hộ thị hiền tân. Kim nhật quy gia khứ, tương dữ quý nhân khán.

Thiên thôn nhật nguyệt minh (thượng yêu hạ minh), ngũ nguyệt dĩ tam long. Ngôn thân nhất thốn tạ, thiên lý trọng hội chàng.
* Ghi chú: từ 末 mạt có thể ứng với từ 钟 chung.

Thượng hữu đông lưu thủy, hạ hữu hảo sơn lâm. Chủ nhân cư thử trạch, khả dĩ đấu lượng kim.

Mãi nhân tâm trù trướng, mại nhân tâm bất an. Đề thi an bình thượng, tương dữ mại nhân khán.

Tự tòng quân biệt hậu, thường thủ cựu thì tâm. Lạc dương lai lộ viễn, hoàn dụng kỷ hoàng kim.

Niệm niệm thôi niên xúc, do như thiểu thủy như. Khuyến chư hành quá chúng, tu học hương vô dư.

Truyền thông truyền lưu

我生君未生

我生君未生, 君生我已老.

我恨君生迟, 君叹我生早.

若得生同时, 誓拟与君好.

年岁不可更, 怅惘知多少.

咫尺似天涯, 寸心难相表.

我生君未生, 君生我已老.

来世愿同生, 永作比翼鸟.

和鸣相伴飞, 天涯复海角.

有日老难飞, 互抱栖树杪.

老死化树藤, 情根亦缠绕.

Ngã sinh quân vị sinh

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Ngã hận quân sinh trì, quân thán ngã sinh tảo.

Nhược đắc sinh đồng thì, thệ nghĩ dữ quân hảo.

Niên tuế bất khả canh, trướng võng tri đa thiểu.

Chỉ xích tự thiên nhai, thốn tâm nan tương biểu.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Lai thế nguyện đồng sinh, vĩnh tác bỉ dực điểu.

Hòa minh tương bạn phi, thiên nhai phục hải giác.

Hữu nhật lão nan phi, hỗ bão tê thụ diểu.

Lão tử hóa thụ đằng, tình căn diệc triền nhiễu.

Thứ 2, 7 giờ 34 phút, ngày 15 tháng 6 năm 2015 (Dương lịch).

Giờ Thìn (từ 7h-9h sáng), ngày 29 tháng 4 năm Ất (Nông lịch) do Thính Tiêu Vũ quán bình soạn.

Bản in 12, ngày 22 tháng 12 năm 2015 do báo chiều Bạc Châu thuộc tập đoàn báo chí nhật báo An Huy đăng.

Internet truyền lưu

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.

君生我未生, 我生君已老.

君恨我生迟, 我恨君生早.

君生我未生, 我生君已老.

恨不生同时, 日日与君好.

我生君未生, 君生我已老.

我离君天涯, 君隔我海角.

我生君未生, 君生我已老.

化蝶去寻花, 夜夜栖芳草.

Quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo.

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.

Hận bất sinh đồng thì, nhật nhật dữ quân hảo.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Ngã ly quân thiên nhai, quân cách ngã hải giác.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Hóa điệp khứ tầm hoa, dạ dạ tê phương thảo.

    Đưa ra văn chương từ internet 《 Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão 》, để nói đến tác giả trên internet Trình Đông Võ 程东武 đã thay đổi bản gốc bài thơ nhằm biểu đạt tình cảm của mình.

   Bài thơ cổ đẹp nhất Trung Hoa do thi nhân Trình Đông Võ ( thành phố Đức Hưng, tỉnh Giang Tây) tục viết, nét đẹp nằm ở phần tục viết, nó phi thường hoàn mỹ, thế cho nên mọi người hiện nay đem cả thủ thơ đều nhận nhầm là tác phẩm của người xưa.

    Bởi vì quá mức thê mỹ,mọi người hiện nay cũng tin tưởng đây là tác phẩm người xưa lưu lại. Trên thực tế nguyên tác thời đại của Đồng quan diêu từ khí đề thi chỉ có câu “Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão; quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo”, ba câu sau do Trình Đông Võ tục viết. Bởi tác phẩm viết tiếp cực kỳ ưu mỹ, được đông đảo người yêu thích văn học trong nước xưng là một trong mười thủ thơ cổ đẹp nhất Trung Hoa.

   Hơn hai mươi năm trước, thủ thơ được xuất bản, mấy ngày ngắn ngủi liền nổi tiếng toàn bộ văn đàn Trung Quốc! Khoảng thời gian đó không có internet truyền lưu, chỉ dựa vào điện thoại và thư từ, điều này thật là kỳ tích không thể tưởng tượng nổi! Văn khá thê mỹ, phổ biến rộng rãi, ảnh hưởng sâu xa.

Ý tứ là: Cảm thán hai người yêu nhau lại không thể gần nhau, đành chịu chua xót.

Sự bất đắc dĩ trong thơ có thể là khoảng cách tuổi tác, còn có khoảng cách xa gần.

Cũng có thể lý giải: khi ngươi nói chuyện yêu thương, ta còn không biết tình là gì; khi ta biết tình là gì, ngươi đã cách xa; ta hận không thể cùng ngươi đồng thời hiểu được tình ái, mỗi ngày cùng ngươi tương tùy, mỗi ngày cùng ngươi gần nhau. . .

Một bài thơ khác mô phỏng theo bài thơ của Trình Đông Võ cũng khá tuyệt diệu, đó là bài 《 Thế giới thượng tối viễn đích cự ly 》 《 世界上最远的距离 》. Nhất là vài câu tiếp theo:

世界上最远的距离 不是 树与树的距离

而是 同根生长的树枝 却无法在风中相依

世界上最远的距离 不是 树枝无法相依

而是 相互了望的星星 却没有交汇的轨迹

世界上最远的距离 不是 星星之间的轨迹

而是 纵然轨迹交汇 却在转瞬间无处寻觅

世界上最远的距离 不是 瞬间便无处寻觅

而是 尚未相遇 便注定无法相聚

世界上最远的距离 是飞鸟与鱼的距离

一个在天 一个却深潜海底

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thụ dữ thụ đích cự ly

Nhi thị đồng căn sinh trường đích thụ chi khước vô pháp tại phong trung tương y

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thụ chi vô pháp tương y

Nhi thị tương hỗ liễu vọng đích tinh tinh khước một hữu giao hối đích quỹ tích

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị tinh tinh chi gian đích quỹ tích

Nhi thị túng nhiên quỹ tích giao hối khước tại chuyển thuấn gian vô xử tầm mịch

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thuấn gian tiện vô xử tầm mịch

Nhi thị thượng vị tương ngộ tiện chú định vô pháp tương tụ

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly thị phi điểu dữ ngư đích cự ly

Nhất cá tại thiên nhất cá khước thâm tiềm hải để

“Thế giới thượng tối diêu viễn đích cự ly” có khá nhiều phiên bản, cách nói không hoàn toàn giống nhau. Nhưng truyền lưu rộng nhất, ảnh hưởng tối sâu xa còn là phiên bản của thi nhân Trình Đông Võ ( thành phố Đức Hưng, tỉnh Giang Tây), được đông đảo văn hữu dâng tặng danh hiệu trên thế giới đẹp nhất thơ ca.

Sơ lược lịch sử của đồng tính luyến ái ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, lịch sử của đồng tính luyến ái có bắt nguồn từ xa xưa, sớm nhất có thể kể đến Thuỷ tổ hoàng đế Hoa Hạ [ 华夏]. Học giả Kỷ Hiểu Lam [ 纪晓岚] đời Thanh trong quyển thứ mười hai của《 Duyệt vi thảo đường bút ký 》 《 阅微草堂笔记 》nói: “Các loại học thuyết ngoài học thuyết chính thống gọi là Thủy hoàng đế luyến đồng [娈童]”.

u=1237679994,1347546806&fm=21&gp=0

Vạch trần bí mật đồng tính luyến ái đời Thanh: Quan lại phú thương nuôi dưỡng dự trữ “Tướng công ” [ 相公].

Trung Quốc cổ đại đối với đối đồng tính luyến ái có rất nhiều cách gọi, ví dụ như “Phân đào” [分桃] ( cũng gọi là “Dư đào” [ 余桃], bắt nguồn từ Vệ Linh Công 卫灵公 và nam sủng Di Tử Hà 弥子瑕), “Đoạn tụ” (bắt nguồn từ Hán Ai Đế 汉哀帝 và nam sủng Đổng Hiền 董贤), “An lăng” (bắt nguồn từ Sở Cộng Vương 楚共王 và nam sủng Long Dương Quân 龙阳君)… Và “Khế nhược kim lan” [ 契若金兰] “Lai hộ đối thực” [ 莱户对食] lại là chuyên đồng tính luyến ái nữ.

Đời Hán, “Hiệp nật luyến đồng” [狎昵娈童] là đam mê đặc biệt của quân vương quý tộc, nhưng đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, đam mê này dần dần phổ biến đối với sĩ phu cùng xã hội dân chúng, đồng thời có nhiều thơ, ca, kịch về nó. Đến thời Ngũ Đại Đường triều, đam mê nam sắc dần dần suy yếu, nhưng mà Tống triều lại hưng thịnh lên, nam tử công khai làm kỹ, tập trung các nơi phong nguyệt, mời chào buôn bán. Thời Nguyên đam mê nam sắc lại suy yếu, đến thời Minh Thanh tiếp tục khôi phục phồn thịnh, nhất là đời Thanh, đam mê này càng phát triển.

Ghi chú:

男宠: nam sủng

同性恋: đồng tính luyến ái

相公: tướng công

为娼: vi xướng, làm kỹ nữ; gái điếm

风月作坊: phong nguyệt tác phường, nơi kinh doanh chuyện tình dục

Hôn tục thập lý hồng trang ở Ninh Hải [Phần I]

Thập lý hồng trang là một loại hôn tục ở huyện Ninh Hải, tỉnh Chiết Giang (phía Đông tỉnh Chiết Giang), diễn ra khi gả con gái về nhà chồng, đồ cưới gồm đầy đủ mọi thứ, từ giường chiếu gia cụ đến kim chỉ, do đó đội ngũ đồ cưới kéo dài mười dặm. Năm 2008, loại hôn tục này được xếp vào Văn hóa di sản phi vật chất cấp quốc gia của Trung Quốc.

GucnP_U22858T803834881411049063936

Giá trang ( Đồ cưới)

Hôn tục thập lý hồng trang bắt nguồn từ triều đại Nam Tống, phổ biến vào thời Minh Thanh. Bởi kinh tế giàu có và đông đúc, khi phú hộ địa phương gả con gái, với mong muốn con gái ở nhà chồng có địa vị, đồng thời thể hiện tài phú, do đó từ từ hình thành phong tục kết thân với những người có địa vị cao hơn mình.

Điều này phản ánh thông qua đồ cưới, thể hiện ở sự khác biệt về toàn bộ gia cụ màu đỏ, hình dạng và cấu tạo của bộ phận thiếp vàng. Nghệ thuật điêu khắc gỗ chu kim và kỹ thuật sơn nhũ kim ở Ninh Hải đã tạo nên các dụng cụ cưới đạt đến độ tinh xảo cao.

Thập lý hồng trang chủ yếu gồm dụng cụ trong nhà, cùng các vật dụng dành cho nữ giới, chủ yếu là giường khi kết hôn, rương, tráp, bồn rửa chân, kim chỉ và dụng cụ sinh hoạt hàng ngày, quần áo và trang sức dành cho cô dâu trong cả đời, còn có các vật trang trí trong phòng.

Đồ cưới của gia đình bình thường thường có khoảng trăm món, mà gia đình giàu có hoặc thế gia vọng tộc có thể có hơn nghìn món không lặp lại. Thời gian chuẩn bị những vật phẩm này thông thường dài đến mấy năm.