Việt nhân ca 越人歌

IMG_5907Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi, 
Tâm duyệt quân hề quân bất tri.

越人歌

今夕何夕兮?
搴舟中流,
今日何日兮?
得與王子同舟。
蒙羞被好兮,
不訾詬恥。
心幾煩而不絕兮,
得知王子。
山有木兮木有枝,
心悅君兮君不知。

Việt nhân ca 

Kim tịch hà tịch hề?
Khiên chu trung lưu,
Kim nhật hà nhật hề?
Đắc dữ vương tử đồng chu.
Mông tu bị hảo hề,
Bất tý cấu sỉ.
Tâm kỷ phiền nhi bất tuyệt hề,
Đắc tri vương tử.
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi, 
Tâm duyệt quân hề quân bất tri.

Dịch nghĩa 

Đêm nay là đêm nào?
Đưa thuyền trôi giữa dòng.
Hôm nay là hôm nào?
Được cùng vương tử trên thuyền.
Thật lấy làm xấu hổ,
(Vương tử) không trách mắng thiếp (vì thân phận).
Trong lòng thấy phiền muộn không dứt,
Được biết vương tử.
Núi có cây, cây có cành, 
Lòng mến thích chàng rồi, chàng không hay.

Đây là một bài ca dao lưu truyền ở nước Sở thời Xuân Thu. Theo Thuyết uyển, thiên Thiện thuyết, em cùng mẹ của Sở vương là Ngạc quân tử 鄂君子 du thuyền trên sông, cô gái người nước Việt chèo thuyền hát một bài ca biểu thị lòng mến mộ ông. Bài thơ được cô lái thuyền hát bằng tiếng Việt, nhưng ông dù không hiểu tiếng Việt mà nghe lời hát lấy làm yêu thích, nhờ người dịch sang tiếng Sở, chính là bài ca ở đây. Ngạc quân tử hiểu được càng vui mừng cởi áo gấm khoác lên người cô gái.

Đây được coi là bài thơ dịch đầu tiên trong văn học Trung Quốc. Bài này có ảnh hưởng trực tiếp tới Sở từ.

 

Bản dịch của Điệp luyến hoa

Đêm nay đêm nào chừ,
Đưa thuyền theo dòng.
Hôm nay hôm nào chừ,
Được cùng vương tử thuyền chung.
Xấu hổ làm sao chừ,
Người không mắng mỏ.
Lòng muộn phiền mà không dứt chừ,
Được quen vương tử.
Núi có cây chừ cây có cành, 
Lòng mến chàng chừ chàng biết chăng.
Nguồn: THI VIỆN

Một số câu nói thường gặp trong truyện

♣ Đại kinh tiểu quái 大驚小怪 sợ lớn hãi nhỏ. Tục cho sự bị người quở trách là quái. Như kiến quái 見怪 thấy trách, chiêu quái 招怪 vời lấy lời trách, v.v.

♣ Phật khẩu xà tâm 佛口蛇心 miệng Phật tâm xà, kẻ độc ngầm; kẻ hung ác gọi là phong thỉ trường xà 封豕長蛇 lợn lớn rắn dài.

♣ Tiểu nhân chi quá dã tất vấn 小人之過也,必文 tiểu nhân có lỗi tất che đậy (văn sức điều lỗi cho không phải là lỗi).

♣ Thiên kinh địa nghĩa 天經地義 nói cái đạo thường như trời đất không thể di dịch được.

♣ Yến dực 燕翼 chim yến ấp con. Vì thế nên người ta mưu tính cho đàn sau gọi là yến dực di mưu 燕翼詒謀. Nuôi nấng che chở cho nên người gọi là noãn dực 卵翼, v.v.

♣ Đại học chi đạo 大學之道 chưng đạo đại học. Chưng, dùng về lời nói liền nối nhau.

♣ Ðằng Văn-Công tương chi Sở 滕文公將之楚 Ðằng Văn-Công sắp đi sang nước Sở.

♣ Chi tử mỹ tha 之死靡他 đến chết chẳng tới ai.

♣ Thang sử nhân vấn chi 湯使人問之 vua Thang khiến người hỏi đấy (hỏi ai ? tức là hỏi Cát Bá, chữ chi đây là thay hai chữ Cát Bá).

♣ Chi tử vu quy 之子于歸 người ấy về nhà chồng.

♣ Phát minh tân lý 發明新理 phát minh ra lẽ mới, tự minh tâm khúc 自明心曲 tự tỏ khúc nhôi (khúc nôi), minh minh như thử 明明如此 rành rành như thế, quang minh lỗi lạc 光明磊落 sáng sủa dõng dạc, v.v.

♣ Đa kỳ hữu lễ 多其有禮 người có lễ lắm.

♣ Táng minh 喪明 mù mắt, ông Tử Hạ con chết khóc mù mắt, vì thế mới gọi sự con người chết là táng minh chi thống 喪明之痛.

♣ Xả bổn trục mạt 捨本逐末 bỏ cỗi rễ mà theo ngọn ngành

♣ Bổn cai như thử 本該如此 vốn lại phải như thế.

♣ Nhất bổn vạn lợi 一本萬利 một vốn muôn lời.

♣  Toàn phát toàn dũ 旋發旋愈 vụt phát vụt khỏi, họa bất toàn chủng 禍不旋踵 vạ chẳng kịp trở gót.

♣ Bất quân thủ 不龜手 tuy rét giá mà không nứt nở.

♣ Tống nhân hữu thiện vi bất quân thủ chi dược giả 宋人有善爲不龜手之藥者 (Tiêu dao du 逍遙遊) người nước Tống có kẻ khéo làm thứ thuốc không cóng tay.

♣ Sách Mạnh Tử 孟子 nói Thu dương dĩ bộc chi 秋陽以暴之 mặt trời mùa thu rọi xuống cho.

♣  Thiên tử đương dương 天子當陽 vua ngồi xoay về hướng nam.

♣ Dương vi tôn kính 陽爲尊敬 ngoài mặt tỏ ra dáng tôn kính.

♣ Xuất khẩu thành chương 出口成章 mở miệng nên văn chương.

♣ Nhân tài bối xuất 人才輩出 nhân tài ra nhiều.

♣ Hà xuất đồ 河出圖 sông hiện ra bản đồ.

♣ Xuất loại bạt tụy 出類拔萃 siêu việt hơn cả mọi người.

♣ Nhập bất phu xuất 入不敷出 số vào chẳng bằng số ra.

♣ Dương dương diên 烊烊焉 nhơn nhơn vậy.

♣ Tựu hữu đạo nhi chính diên 就有道而正焉 tới kẻ có đạo mà chất chính vậy. Ta quen đọc là chữ yên cả.

♣ Nhi kim an tại 而今安在 mà nay còn đâu, dĩ nhi 已而 đã mà.

♣ Nhi mưu động can qua ư bang nội 而謀動干戈於邦內 bèn mưu khởi sự đánh nhau ở trong nước.

♣ Lưu đãng vong phản 流蕩忘反 trôi giạt quên trở lại, lưu liên hoang vong 流連荒亡 lưu liên lu bù, nói kẻ chơi bời phóng túng không còn nghĩ gì.

♣ Ðất ngoài biên thùy, quan phải bổ lên vùng man rợ gọi là lưu quan 流官. Do người thổ trước nối đời làm gọi là thổ tư 土司, đổi phép bổ lưu quan thay thổ tư gọi là cải thổ quy lưu 改土歸司.

♣ Nước Trịnh nói với người nước Sở tự xưng nước mình là đông đạo chủ 東道主 nghĩa là người chủ ở phương đông. Tục gọi các chủ cổ phần công ty là cổ đông 股東 là do nghĩa đó.

♣ Khởi cư chú 起居注, cổ kim chú 古今注 đều là sách ghi chép chuyện cũ cả.

♣ Trú nhĩ vu mao 晝爾于茅 sớm đi lấy cỏ tranh.

♣ Chí vu kỳ hạ 至于岐下 đến chưng dưới núi Kỳ.

♣ Vu Thang hữu quang 于湯有光 so với vua Thang có ý sáng sủa hơn.

♣ Kỳ giác dã vu vu 其覺也于于 thửa biết vậy lờ mờ.

♣ Hu ta lân hề 于嗟麟兮 chao ơi con lân kia !

♣ Chế trúng nhị thiên thạch 制中二天石 phép đủ hai nghìn thạch.

♣ Kỳ nhân kỳ sự 其人其事 người ấy sự ấy.

♣ Bỉ ký chi tử 彼其之子 con người như thế kia.

♣ Dạ như hà ki 夜如何其 đêm thế nào kia, đêm thế nào ư !

Quân sinh ta vị sinh, ta sinh quân dĩ lão

Câu này trích từ 《 Đồng quan diêu từ khí đề thi 》 《 铜官窑瓷器题诗 》từ thời Đường, không rõ tác giả

10dfa9ec8a1363274091f1cc928fa0ec09fac7d4

Thơ này do lò gốm sứ Đồng Quan thời Đường đề thơ, tác giả có thể là Đào Công Chính hoặc ca dao phổ biến lúc đó. Năm 1974-1978, khai quật di chỉ lò Đồng Quan ở Hồ Nam Trường Sa, trông thấy câu thơ được ghi lại trong quyển hạ 《 Toàn Đường thi bổ biên 》 《 全唐诗补编 》của Trần Thượng Quân, quyển năm mươi sáu của 《 Toàn Đường thi tục thập 》 《 全唐诗续拾 》, thơ ngũ ngôn của người vô danh, trang thứ 1642, nhà in Trung Hoa, bản in tháng 10 năm 1992.

a7295e45gw1f39vwsumsij20xc0m810u

Toàn bộ thơ

夜夜挂长钩, 朝朝望楚楼. 可怜孤月夜, 沧照客心愁.

圣水出温泉, 新阳万里传. 常居安乐国, 多报未来缘.

日日思前路, 朝朝别主人. 行行山水上, 处处鸟啼新.

只愁啼鸟别, 恨送古人多. 去后看明月, 风光处处过.

一别行万里, 来时未有期. 月中三十日, 无夜不相思.

千里人归去, 心画 【 疑为尽字 】 一杯中. 莫虑前途远, 开坑 【 疑为帆字 】 逐便风.

小水通大河, 山深鸟宿多. 主人看客好, 曲路亦相过.

道别即须分, 何劳说苦辛. 牵牛石上过, 不见有蹄痕.

一月三场战, 曾无赏罚为. 将军马上坐, 将士雪中眠.

自入新丰市, 唯闻旧酒香. 抱琴酤一醉, 尽日卧弯汤.

我有方寸心, 无人堪共说. 遣风吹却云, 言向天边月.

男儿大丈夫, 何用本乡居. 明月家家有, 黄金何处无.

客人莫直入, 直入主人嗔. 扣门三五下, 自有出来人.

君生我未生, 我生君已老. 君恨我生迟, 我恨君生早.

天地平如水, 王道自然开. 家中无学子, 官从何处来.

龙门多贵客, 出户是贤宾. 今日归家去, 将与贵人看.

天吞日月明 (上夭下明), 五月已三龙. 言身一寸谢, 千里重会撞.

上有东流水, 下有好山林. 主人居此宅, 可以斗量金.

买人心惆怅, 卖人心不安. 题诗安瓶上, 将与卖人看.

自从君别后, 常守旧时心. 洛阳来路远, 还用几黄金.

念念催年促, 由如少水如. 劝诸行过众, 修学香无馀.

Dạ dạ quải trường câu, triêu triêu vọng sở lâu. Khả liên cô nguyệt dạ, thương chiếu khách tâm sầu.

Thánh thủy xuất ôn tuyền, tân dương vạn lý truyện. Thường cư an nhạc quốc, đa báo vị lai duyên.

Nhật nhật tư tiền lộ, triêu triêu biệt chủ nhân. Hành hành sơn thủy thượng, xử xử điểu đề tân.

Chích sầu đề điểu biệt, hận tống cổ nhân đa. Khứ hậu khán minh nguyệt, phong quang xử xử quá.

Nhất biệt hành vạn lý, lai thì vị hữu kỳ. Nguyệt trung tam thập nhật, vô dạ bất tương tư.

Thiên lý nhân quy khứ, tâm họa 【 Nghi vi tẫn tự 】 nhất bôi trung. Mạc lự tiền đồ viễn, khai khanh 【 Nghi vi phàm tự 】 trục tiện phong.

Tiểu thủy thông đại hà, sơn thâm điểu túc đa. Chủ nhân khán khách hảo, khúc lộ diệc tương quá.

Đạo biệt tức tu phân, hà lao thuyết khổ tân. Khiên ngưu thạch thượng quá, bất kiến hữu đề ngân.

Nhất nguyệt tam tràng chiến, tằng vô thưởng phạt vi. Tương quân mã thượng tọa, tương sĩ tuyết trung miên.
*Ghi chú: Từ 眠 miên không hợp vần, nghi ngờ có sai lầm. Có bản sửa chữa thành từ 归 quy, còn khó xác định.

Tự nhập tân phong thị, duy văn cựu tửu hương. Bão cầm cô nhất túy, tẫn nhật ngọa loan thang.

Ngã hữu phương thốn tâm, vô nhân kham cộng thuyết. Khiển phong xuy khước vân, ngôn hướng thiên biên nguyệt.

Nam nhi đại trượng phu, hà dụng bản hương cư. Minh nguyệt gia gia hữu, hoàng kim hà xử vô.

Khách nhân mạc trực nhập, trực nhập chủ nhân sân. Khấu môn tam ngũ hạ, tự hữu xuất lai nhân.

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão. Quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo.

Thiên địa bình như thủy, vương đạo tự nhiên khai. Gia trung vô học tử, quan tòng hà xử lai.

Long môn đa quý khách, xuất hộ thị hiền tân. Kim nhật quy gia khứ, tương dữ quý nhân khán.

Thiên thôn nhật nguyệt minh (thượng yêu hạ minh), ngũ nguyệt dĩ tam long. Ngôn thân nhất thốn tạ, thiên lý trọng hội chàng.
* Ghi chú: từ 末 mạt có thể ứng với từ 钟 chung.

Thượng hữu đông lưu thủy, hạ hữu hảo sơn lâm. Chủ nhân cư thử trạch, khả dĩ đấu lượng kim.

Mãi nhân tâm trù trướng, mại nhân tâm bất an. Đề thi an bình thượng, tương dữ mại nhân khán.

Tự tòng quân biệt hậu, thường thủ cựu thì tâm. Lạc dương lai lộ viễn, hoàn dụng kỷ hoàng kim.

Niệm niệm thôi niên xúc, do như thiểu thủy như. Khuyến chư hành quá chúng, tu học hương vô dư.

Truyền thông truyền lưu

我生君未生

我生君未生, 君生我已老.

我恨君生迟, 君叹我生早.

若得生同时, 誓拟与君好.

年岁不可更, 怅惘知多少.

咫尺似天涯, 寸心难相表.

我生君未生, 君生我已老.

来世愿同生, 永作比翼鸟.

和鸣相伴飞, 天涯复海角.

有日老难飞, 互抱栖树杪.

老死化树藤, 情根亦缠绕.

Ngã sinh quân vị sinh

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Ngã hận quân sinh trì, quân thán ngã sinh tảo.

Nhược đắc sinh đồng thì, thệ nghĩ dữ quân hảo.

Niên tuế bất khả canh, trướng võng tri đa thiểu.

Chỉ xích tự thiên nhai, thốn tâm nan tương biểu.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Lai thế nguyện đồng sinh, vĩnh tác bỉ dực điểu.

Hòa minh tương bạn phi, thiên nhai phục hải giác.

Hữu nhật lão nan phi, hỗ bão tê thụ diểu.

Lão tử hóa thụ đằng, tình căn diệc triền nhiễu.

Thứ 2, 7 giờ 34 phút, ngày 15 tháng 6 năm 2015 (Dương lịch).

Giờ Thìn (từ 7h-9h sáng), ngày 29 tháng 4 năm Ất (Nông lịch) do Thính Tiêu Vũ quán bình soạn.

Bản in 12, ngày 22 tháng 12 năm 2015 do báo chiều Bạc Châu thuộc tập đoàn báo chí nhật báo An Huy đăng.

Internet truyền lưu

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.

君生我未生, 我生君已老.

君恨我生迟, 我恨君生早.

君生我未生, 我生君已老.

恨不生同时, 日日与君好.

我生君未生, 君生我已老.

我离君天涯, 君隔我海角.

我生君未生, 君生我已老.

化蝶去寻花, 夜夜栖芳草.

Quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo.

Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão.

Hận bất sinh đồng thì, nhật nhật dữ quân hảo.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Ngã ly quân thiên nhai, quân cách ngã hải giác.

Ngã sinh quân vị sinh, quân sinh ngã dĩ lão.

Hóa điệp khứ tầm hoa, dạ dạ tê phương thảo.

    Đưa ra văn chương từ internet 《 Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão 》, để nói đến tác giả trên internet Trình Đông Võ 程东武 đã thay đổi bản gốc bài thơ nhằm biểu đạt tình cảm của mình.

   Bài thơ cổ đẹp nhất Trung Hoa do thi nhân Trình Đông Võ ( thành phố Đức Hưng, tỉnh Giang Tây) tục viết, nét đẹp nằm ở phần tục viết, nó phi thường hoàn mỹ, thế cho nên mọi người hiện nay đem cả thủ thơ đều nhận nhầm là tác phẩm của người xưa.

    Bởi vì quá mức thê mỹ,mọi người hiện nay cũng tin tưởng đây là tác phẩm người xưa lưu lại. Trên thực tế nguyên tác thời đại của Đồng quan diêu từ khí đề thi chỉ có câu “Quân sinh ngã vị sinh, ngã sinh quân dĩ lão; quân hận ngã sinh trì, ngã hận quân sinh tảo”, ba câu sau do Trình Đông Võ tục viết. Bởi tác phẩm viết tiếp cực kỳ ưu mỹ, được đông đảo người yêu thích văn học trong nước xưng là một trong mười thủ thơ cổ đẹp nhất Trung Hoa.

   Hơn hai mươi năm trước, thủ thơ được xuất bản, mấy ngày ngắn ngủi liền nổi tiếng toàn bộ văn đàn Trung Quốc! Khoảng thời gian đó không có internet truyền lưu, chỉ dựa vào điện thoại và thư từ, điều này thật là kỳ tích không thể tưởng tượng nổi! Văn khá thê mỹ, phổ biến rộng rãi, ảnh hưởng sâu xa.

Ý tứ là: Cảm thán hai người yêu nhau lại không thể gần nhau, đành chịu chua xót.

Sự bất đắc dĩ trong thơ có thể là khoảng cách tuổi tác, còn có khoảng cách xa gần.

Cũng có thể lý giải: khi ngươi nói chuyện yêu thương, ta còn không biết tình là gì; khi ta biết tình là gì, ngươi đã cách xa; ta hận không thể cùng ngươi đồng thời hiểu được tình ái, mỗi ngày cùng ngươi tương tùy, mỗi ngày cùng ngươi gần nhau. . .

Một bài thơ khác mô phỏng theo bài thơ của Trình Đông Võ cũng khá tuyệt diệu, đó là bài 《 Thế giới thượng tối viễn đích cự ly 》 《 世界上最远的距离 》. Nhất là vài câu tiếp theo:

世界上最远的距离 不是 树与树的距离

而是 同根生长的树枝 却无法在风中相依

世界上最远的距离 不是 树枝无法相依

而是 相互了望的星星 却没有交汇的轨迹

世界上最远的距离 不是 星星之间的轨迹

而是 纵然轨迹交汇 却在转瞬间无处寻觅

世界上最远的距离 不是 瞬间便无处寻觅

而是 尚未相遇 便注定无法相聚

世界上最远的距离 是飞鸟与鱼的距离

一个在天 一个却深潜海底

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thụ dữ thụ đích cự ly

Nhi thị đồng căn sinh trường đích thụ chi khước vô pháp tại phong trung tương y

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thụ chi vô pháp tương y

Nhi thị tương hỗ liễu vọng đích tinh tinh khước một hữu giao hối đích quỹ tích

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị tinh tinh chi gian đích quỹ tích

Nhi thị túng nhiên quỹ tích giao hối khước tại chuyển thuấn gian vô xử tầm mịch

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly bất thị thuấn gian tiện vô xử tầm mịch

Nhi thị thượng vị tương ngộ tiện chú định vô pháp tương tụ

Thế giới thượng tối viễn đích cự ly thị phi điểu dữ ngư đích cự ly

Nhất cá tại thiên nhất cá khước thâm tiềm hải để

“Thế giới thượng tối diêu viễn đích cự ly” có khá nhiều phiên bản, cách nói không hoàn toàn giống nhau. Nhưng truyền lưu rộng nhất, ảnh hưởng tối sâu xa còn là phiên bản của thi nhân Trình Đông Võ ( thành phố Đức Hưng, tỉnh Giang Tây), được đông đảo văn hữu dâng tặng danh hiệu trên thế giới đẹp nhất thơ ca.